I. GIẢI THÍCH TÊN GỌI
"Tí” biểu thị cẳng tay, “Nhu” có nghĩa là khuỷu, là
cánh tay trên. Từ tên gọi của huyệt đạo có thể hiểu nó có hiệu quả cao trong việc
trị liệu các bệnh của cánh tay trên và cẳng tay.
II. NHẬN BIẾT VỊ TRÍ HUYỆT ĐẠO
Dang ngang cánh tay, cơ tam giác (cơ delta) sẽ nổi hẳn
lên. Dùng đầu ngón tay ấn lên khu vực từ đầu dưới cơ delta cho đến giữa cánh
tay, sẽ sờ thấy xương cánh tay dưới da; ấn lên khu vực lõm ấy, chỗ nào gây cảm
giác tê đau cho cả cánh tay trên đến khuỷu tay thì chỗ ấy chính là huyệt Tí
nhu. Cũng có thể xác định vị trí của huyệt đạo này bằng cách đo từ nếp nhăn khuỷu
tay trong lên phía cơ delta chừng 7 đốt ngón tay, nơi đó chính là huyệt Tí nhu.
III. HIỆU QUẢ TRỊ LIỆU
Thần kinh điều khiển ngón cái và ngón trỏ bàn tay đi qua
sát huyệt Tí nhu, do đó có thể nói rằng: đây chính là huyệt đạo quan trọng duy
trì các chức năng của cả cánh tay, rất hiệu quả trong việc trị liệu các triệu
chứng như đau nhức vai ở người cao tuổi, tay và cánh tay đau nhức, tê dại, đau
dây thần kinh... Ngay cả các triệu chứng như cánh tay đau nhức tới mức không nhấc
lên được, cổ không thể lay động được do bị trúng gió, chấn thương vẹo cột sống
cổ, tay sưng tím, nhọt mủ... tác động lên huyệt này cũng có hiệu quả.
KHÁI NIỆM VỀ BỆNH VÀ TÀ KHÍ TRONG HỌC THUYẾT ĐÔNC Y
Khái niệm "Khỏe mạnh" theo học thuyết Đông y là
năng lượng của Kinh lạc lưu thông thông suốt, và trạng thái của chức năng Lục tạng
lục phủ chính thường. Ngược lại nếu như sự lưu thông của năng lượng và chức
năng của Lục tạng lục phủ gặp một sự bất thường nào đó thì không thể duy trì được
tình trạng khỏe mạnh, mà sinh bệnh. Cũng giống như những hiện tượng của tự
nhiên, khí hậu không phải lúc nào cũng luôn ổn định và tươi đẹp, thân thể và
tinh thần của con người cũng có lúc này, lúc nọ làm cho tình trạng cơ thể mất
đi sự cân bằng.
7 loại tà khí là nguyên nhân gây bệnh
Đối với nguyên nhân của bệnh thì Đông y cho rằng tà khí
là nhân tố. "Tà" biểu thị sự tà ác, còn "Khí" là chi khí
huyết. Tức là quan niệm rằng vì tà khí xâm nhập vào trong cơ thể nên mới phát
sinh ra bệnh tật. Các chủng loại của tà khí phối hợp với các hiện tượng của tự
nhiên, có thể phân làm 7 loại như: tà khí Hàm, tà khí Thử, tà khí Phong, tà khí
Thấp, tà khí Nhiệt, tà khí Táo, tà khí Hỏa. Ví dụ cái gọi là tà khí Phong của
Phong tà, xâm nhập vào cơ thể tại huyệt đạo Phong môn, làm cho con người bị cảm
mạo. Tà khi ấy dần dần tích tụ tại Phong trì, rồi tập trung tại huyệt Phong phủ
ở phía sau đầu, làm cho cảm mạo càng trở nên nặng thêm, ác tính hóa. Từ đó suy
ra mỏi khi tà khí xâm nhập vào cơ thể, nó đi theo sự lưu thông của khí và lưu
lượng của năng lượng, lặng lẽ tuần hoàn khắp thân thể con người, chỉ cần sự lưu
thông bị trắc trở thì tà khí sẽ từ từ tích tụ lại. Theo học thuyết Đông y thì
Kinh lạc của những con đường lưu thông của năng lượng là nơi mà tà khí phân tán
khắp nơi dễ dàng tích tụ lại, những vị trí đó được gọi là huyệt đạo (kinh huyệt).
Vì thể trị liệu huyệt đạo tức là làm tiêu trừ hoặc phân tán tà khí tích tụ tại
huyệt đạo, là xúc tiến các phương pháp trị liệu các loại bệnh tật, phục hồi và
cải thiện tình hình sức khỏe.
Đăng nhận xét