I. GIẢI THÍCH TÊN GỌI
Tên huyệt đạo này có ý nghĩa chỉ sự giao thoa của 3 đường
âm mạch ở bên trong cơ thể; âm mạch là một trong những đường đi (kinh lạc) của
các huyệt đạo có liên quan đến cơ năng của cơ thể, mà trong Đông y phân loại
làm thành Âm và Dương. Huyệt đạo này có biệt danh là Đan điền (Đơn điền), Hoành
hộ, Thiếu quan.
II. NHẬN BIẾT VỊ TRÍ HUYỆT ĐẠO
Huyệt đạo này nằm trên đường thẳng chạy dọc giữa bụng, nằm
phía dưới rốn chừng hơn một đốt ngón tay.
III. HIỆU QUẢ TRỊ LIỆU
Huyệt đạo này có hiệu quả cao trong việc trị liệu các bệnh
như đau bụng dưới do hàn lạnh, sản hậu, xuất huyết tử cung... Đối với các loại
triệu chứng của bệnh đau thận, viêm phúc mạc, kiết lỵ mạn tính, kinh nguyệt
không đều, đau thần kinh tọa... cũng rất có hiệu quả trong chữa trị.
12 KINH CHÍNH KINH VÀ 8 MẠCH KỲ KINH
Mỗi mặt trong lục phủ
lục tạng có 12 đạo năng lượng đối ứng với cơ năng của nó tức là 12 kinh lạc. Đó
là khái niệm vô cùng quan trọng để triển khai liệu pháp huyệt đạo theo tư duy của
học thuyết Đông y. Nếu năng lượng có thể tuần hoàn thuận lợi trong các kinh lạc
của cơ thể, thì cơ thể con người được khỏe mạnh. Nhưng nếu năng lượng không duy
trì được mức độ chính thường (quá nhiều hoặc không đây đủ) thì cơ thể không thể
khỏe mạnh được. Do đó mà xuất hiện công năng của một loại đường đi riêng nhằm bổ
trợ cho sự quá thừa hoặc quá thiếu năng lượng; đó là tám mạch: Nhâm mạch, Đốc mạch,
Dương kiêu mạch, Âm kiêu mạch, Dương duy mạch, Âm duy mạch, Đới mạch, Xung mạch
để đối ứng với 12 mạch chính kinh, được gọi là “Bát mạch kỳ kinh". Trong số
các mạch lạc nay thì Nhâm mạch chạy dọc chính giữa một trước thân thể từ hàm dưới
cho đến bụng; còn Đốc mạch thì chạy dọc theo chính giữa lưng ở phía sau thân thể.
Đăng nhận xét