I. GIẢI THÍCH TÊN GỌI
Trong Đông y người ta phân chia cơ thể con người ra làm 3
bộ phận là: Thiên, Địa và Nhân. Từ "Thiên" trong huyệt Thiên song chỉ
phần cơ thể con người từ xương quai xanh trở lên, còn từ “Song" có ý nghĩa
là cửa sổ, tức là cái cửa sổ dòm ngó các bộ phận bị bệnh của “Thiên”.
II. NHẬN BIẾT VỊ TRÍ HUYỆT ĐẠO
Nằm tại giao điểm của đường thẳng nối từ mõm xương đầu cơ
Nhũ đột phía sau tai kéo thẳng xuống cắt với đường thẳng đi ngang qua trái khế
ra phía sau cổ. Kết hợp thêm với biện pháp dùng lòng ngón tay sờ tìm ra chỗ lõm
của động mạch cổ, đó chính là vị trí của huyệt đạo.
III. HIỆU QUẢ TRỊ LIỆU
Huyệt đạo này rất có hiệu quả trị liệu các loại bệnh
thông thường của tai và các triệu chứng viêm tai trong, viêm tai giữa, viêm tấy
a-mi-dan, viêm tuyến nước bọt và các triệu chứng đau cổ, vai và cánh tay. Ngoài
ra cũng rất có tác dụng trị liệu đau nhức vùng sau cổ bị ảnh hưởng bởi đau bả
vai, ù tai, nặng tai, đau cổ họng, gò má tê cứng hoặc sưng đỏ. Khi tiến hành liệu
pháp huyệt đạo đối với huyệt Thiên song không được dùng sức quá mạnh, mà chỉ
nên dùng lòng đầu ngón tay trỏ hoặc ngón giữa ấn vừa đủ mạnh lên huyệt đạo ấy
mà thôi.
HỌC THUYÊT ĐÔNG Y VÀ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH ỨNG VỚI QUY
LUẬT TỰ NHIÊN
Học thuyết Đông y và thuyết Âm dương ngũ hành lấy liệu
pháp huyệt đạo làm đại diện cho học thuyết Đông y là thuận ứng với quy luật tự
nhiên. Gốc của nó bao gồm hiện tượng phân thành âm, dương của thế giới tự nhiên
và tư tưởng tất cả mọi hiện tượng đều thuộc về âm hoặc dương.
THẾ GIỚI QUAN TỰ NHIÊN TRỞ THÀNH CƠ BẢN CỦA THUYẾT ÂM
DƯƠNG NGŨ HÀNH
Thuyết Âm dưong ngũ hành trở thành thế giới quan tự nhiên
độc đáo của học thuyết Đông y, nó quan niệm rằng giới tự nhiên được cầu thành từ
5 loại vật chất: Thực vật, lửa, thổ nhưỡng, khoáng sản, chất lỏng; mà đại diện
cho nó là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Con người cúng là phân loại thế giới tự
nhiên nhỏ thuộc đại thế giới tự nhiên, con toàn thích ứng với thế giới quan tự
nhiên. Tức là toàn bộ nội tạng cơ thể cũng đưọc phân ra làm âm dương, cũng phụ
thuộc vào các loại vật chất: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy. Thế giới tự nhiên vốn không
phái lúc nào cũng hoàn toàn trong xanh sáng sủa má có những lúc mưa gió, bão lụt;
từ đó có thể suy ra rằng có thể con người cũng có lúc tốt lúc xấu, cũng có lúc
thịnh lúc suy. Trạng thái của con người như thế cho nên nó trở thành một hiện
tượng của thế giới tự nhiên, đó chính là tư duy cơ bản của học thuyết Đông y,
và cũng chính vì thế mà nó mới sinh ra những quan điểm độc đáo khác với Tây y.
TÊN GỌI CỦA CÁC HUYỆT ĐẠO CŨNG XUẤT PHÁT TỪ THẾ GIỚI QUAN
TỰ NHIÊN
Các huyệt đạo có hiệu quả được sử dụng trong liệu pháp
huyệt đạo cũng căn cứ vào tư duy ấy mà phát hiện ra tên gọi của chúng. Tên của
các huyệt đạo sử dụng càc ngôn từ Âm Dương hoặc Trì, Khâu, Tuyền, Cốc...của Mộc,
Hóa, Thổ, Kim, Thủy trong ngôn từ của Ngũ hành, nó cũng xuất phát từ tư duy căn
bản của học thuyết Đông y mà có. Ngoài ra, dựa vào thứ tự của Mộc, Hỏa, Thổ,
Kim, Thủy mà dùng văn từ của Ngũ âm như Giác, Vi, Cung, Thương, Vũ hoặc ngôn ngữ
của Ngũ sắc như Thanh, Xích, Hoàng, Bạch, Hắc để đặt tên các huyệt đạo.
Đăng nhận xét